Đau lòng những án mạng do người tâm thần gây ra

SKĐS - Theo bác sĩ Thiện, không phải người nào bị rối loạn tâm thần cũng có thể gây nguy hiểm cho người khác, hiểu đúng vấn đề này thì cộng đồng sẽ giảm được sự kỳ thị đối với người bị rối loạn tâm thần.

Những vụ án đau lòng

Theo thống kê của Bộ Y tế, cả nước hiện có khoảng 13 triệu người (chiếm khoảng 15% dân số) bị bệnh liên quan tới rối loạn tâm thần như trầm cảm, động kinh, rối loạn hành vi, tâm thần phân liệt. Tuy nhiên, cứ 10 người thì chỉ có 2-3 người được chữa trị tại các cơ sở y tế, số còn lại đang sinh sống trong cộng đồng và vẫn có nguy cơ gây án khi mất khả năng kiếm soát hành vi, bởi công tác quản lý người bệnh gặp rất nhiều khó khăn.

Nhiều vụ việc xảy ra trong thời gian ngắn đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về người tâm thần phạm tội khi sống trong cộng đồng dân cư hiện nay.

Điều xót xa đọng lại là hậu quả do người tâm thần sống trong cộng đồng dân cư đã được cảnh báo từ trước, với nhiều vụ án mạng đau lòng xảy ra, nhưng phần vì chủ quan, phần nữa xuất phát từ tình cảm ruột thịt, nhiều trường hợp không muốn đưa anh, em hoặc con cái của mình vào các trung tâm để chữa trị.

Dù đã được cảnh báo nhiều, nhưng thời gian qua, thực trạng người có biểu hiện tâm thần gây án tại các vẫn liên tiếp xảy ra gây nhức nhối xã hội. Dư luận nhiều lần cảnh báo về tình trạng người tâm thần gây án nhưng những vụ án bi thảm vẫn cứ tái diễn, một phần xuất phát từ việc quản lý lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ của địa phương và gia đình người bệnh.

Cũng chính từ đó đã dẫn đến thực trạng đáng báo động, một số đối tượng là người tâm thần đã có hành vi gây nguy hiểm cho người thân trong gia đình và cộng đồng, là thủ phạm gây ra các vụ giết người đau lòng.

Mới đây nhất, vào khoảng 8h ngày 12/5, tại nhà bà N.T.P. người dân thôn Lâm Trung, xã Sơn Lâm phát hiện ông N.Đ.S. (SN 1985), trú xã Thanh Long, huyện Thanh Chương (Nghệ An) nằm chết trên giường, dưới nền nhà có nhiều vết máu, cạnh đó có 2 con dao nhọn. Ngay sau đó người dân đã trình báo cơ quan chức năng.

Công an tỉnh Hà Tĩnh nhanh chóng vào cuộc và xác định, thời điểm xảy ra vụ việc, bà P. đang đi làm ở huyện Đức Thọ, không có mặt ở nhà. Anh S. sinh sống ở tỉnh Nghệ An, thi thoảng mới về đây thăm mẹ nên hầu như không có mâu thuẫn, xích mích với bất kỳ ai.

Sau hơn 1 ngày điều tra, xác minh Công an tỉnh Hà Tĩnh, Công an huyện Hương Sơn đã phát hiện, bắt giữ được đối tượng Nguyễn Ngọc Nhung (SN 1968), trú tại thôn Lâm Bình, xã Sơn Lâm, huyện Hương Sơn. Nhung được xác định là hung thủ dùng dao sát hại anh N.Đ.S.

Điều đáng đau lòng, Nhung là đối tượng bị bệnh tâm thần, không biết chữ, được điều trị tại gia nhưng lại thường xuyên đi lang thang trên địa bàn. Vụ việc hiện vẫn đang được cơ quan chức năng tiếp tục điều tra, làm rõ nguyên nhân, động cơ gây án của đối tượng.

Cũng trên địa bàn huyện Hương Sơn, dư luận còn chưa hết bàng hoàng khi trước đó, vào ngày 26/3/2022, tại xã Sơn Long cũng xảy ra vụ án mạng kinh hoàng. Vào thời điểm nói trên, người dân ở thôn 4, xã Sơn Long phát hiện bà Lê Thị H. (SN 1958) tử vong tại nhà riêng với nhiều vết chém trên cơ thể. Vào cuộc điều tra, lực lượng chức năng xác định, hung thủ gây án chính là Phạm Thị Hiền (SN 1979), con gái ruột của nạn nhân.

Hiền bị bệnh tâm thần, lấy chồng về xã Sơn Trà và đã có 4 người con. Tuy nhiên, thời gian gần đây Hiền về sống với mẹ đẻ. Nguyên nhân của việc ra tay sát hại mẹ, đối tượng khai nhận do xin tiền để mua một chiếc vòng nhưng mẹ không cho nên đã xuống tay với đấng sinh thành.

Còn nhớ cách đây 1 năm, một vụ án khác rúng động dư luận phố núi vào ngày 25/10/2021, khi đối tượng Hà Trọng Quyết (SN 1993), trú xã Sơn Ninh, huyện Hương Sơn dùng dao chém nhiều nhát khiến cháu Hà Trọng Đ. (SN 2013), học sinh lớp 3 Trường Tiểu học Sơn Ninh tử vong.

Đối tượng Hà Trọng Quyết tại cơ quan Công an.

Chỉ vì xích mích với bố của nạn nhân về những chuyện nhỏ nhặt trong cuộc sống, Quyết đã sinh lòng thù hằn, nảy sinh ý nghĩ và hành động dùng dao chém chết con trai của người này để trả thù. Được biết, đối tượng Quyết là người có biểu hiện tâm thần rối loạn, đã từng có thời gian chữa trị về các chứng bệnh tâm thần tại bệnh viện.

Người tâm thần gây án chịu trách nhiệm gì?

Theo quy định tại Điều 21, Bộ luật Hình sự 2015: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự"; Trong trường hợp cơ quan giám định xác định người đó mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình tại thời điểm gây án thì người đó không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện.

Theo một cán bộ Công an Hà Tĩnh cho biết, không phải bất cứ vụ án nào do người có bệnh án tâm thần gây ra cũng được miễn trách nhiệm hình sự. Theo Điều 51, Bộ luật hình sự quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình".

Điều này có nghĩa là nếu như cơ quan giám định xác định đối tượng chỉ mắc bệnh làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì đối tượng vẫn bị xử lý hình sự nhưng sẽ được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên họ sẽ được chữa bệnh hoặc ít nhất là giảm thiểu các hành vi mất kiểm soát trước khi phải chịu trách nhiệm hình sự.

BSCKI Nguyễn Đình Thiện - Giám đốc Bệnh viện Tâm thần Hà Tĩnh cho biết, tính đến ngày 16/5/2022, Bệnh viện Tâm thần Hà Tĩnh đang điều trị nội trú cho 115 bệnh nhân, bao gồm cả bệnh nhân tâm thần phân liệt, trầm cảm, mất ngủ, lo âu, rối loạn tâm thần do sử dụng rượu, ma túy...
Theo bác sĩ Thiện, tình trạng rối loạn tâm thần ở người bệnh được phân loại theo nhiều nhóm bệnh, nhiều chẩn đoán khác nhau, không phải người nào bị rối loạn tâm thần cũng có thể gây nguy hiểm cho người khác, hiểu đúng vấn đề này thì cộng đồng sẽ giảm được sự kỳ thị đối với người bị rối loạn tâm thần.
Hiện nay nhiều bệnh nhân bị rối loạn tâm thần đang được quản lý và điều trị tại cộng đồng, họ được cấp thuốc điều trị thường xuyên, được gia đình chăm sóc, ngược lại họ cũng có thể hỗ trợ người thân làm những công việc nhẹ nhàng trong gia đình, thậm chí có người vẫn có thể đi làm thợ xây, đi chợ bán hàng... Những kết quả này là thành công do chương trình chăm sóc sức khỏe tâm thần tại cộng đồng mang lại, giúp người bệnh tái hòa nhập với cộng đồng.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại tình trạng một số bệnh nhân bị rối loạn tâm thần thường xuyên kích động, quậy phá, đi lang thang gây rối trật tự công cộng nhưng do gia đình không đủ điều kiện về kinh tế, nhân lực nên không thể đưa bệnh nhân đi khám, điều trị chuyên khoa tâm thần được. Thực trạng này dẫn tới việc tình trạng của bệnh nhân ngày càng nặng, tiềm ẩn nguy cơ người bệnh gây ra các hành vi nguy hiểm cho bản thân, cho gia đình và cộng đồng xung quanh.

"Thời gian vừa qua đã xảy ra nhiều vụ án thương tâm do người bị rối loạn tâm thần gây ra. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó chủ yếu là vấn đề người bệnh không được phát hiện bệnh sớm, khám và điều trị kịp thời, dẫn tới việc các hoang tưởng, ảo giác ngày càng nặng hơn, chi phối tư duy của bệnh nhân và làm cho bệnh nhân gây ra những hành vi nguy hiểm", bác sĩ Thiện cho hay.

Trên thực tế, phần lớn bệnh nhân tâm thần được điều trị tại cộng đồng nhưng không phải người bệnh nào cũng được gia đình quan tâm, chăm sóc. Nhiều người bệnh tâm thần không được khám và chữa trị dứt điểm nên bệnh nặng, không kiểm soát được hành vi, dẫn đến những hệ lụy đau lòng, là nỗi lo của toàn xã hội. Pháp luật hiện hành chưa có quy định về việc bắt buộc cách ly người bị bệnh tâm thần với cộng đồng khi người đó chưa thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; kể cả khi họ đã gây án, nếu như mất hoàn toàn khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi thì pháp luật cũng không áp dụng chế tài hình sự đối với người tâm thần.

Như vậy, để thực hiện tốt công tác quản lý, điều trị, giúp đỡ người tâm thần, góp phần phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật do người tâm thần gây ra cần có sự chung tay, góp sức của cả cộng đồng và toàn xã hội. Cần tham gia hỗ trợ gia đình và người tâm thần trong công tác quản lý, điều trị, xóa bỏ mặc cảm, hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phòng ngừa phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật, đế giảm thiểu xảy ra những vụ án đau lòng.

Nguyễn Sơn

Đọc tiếp…

Báo cáo: Trường hợp lâm sàng liên quan đến stress, ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của trẻ

Bài viết của nhóm tác giả mô tả lại quá trình tiếp nhận, đánh giá trẻ nam 10 tuổi có vấn đề liên quan đến stress, khó khăn về hành vi, cảm xúc tại trường học và tại nhà. Nhóm tác giả đồng thời hỗ trợ tâm lý cũng ghi lại quá trình can thiệp toàn diện cho trường hợp bao gồm hỗ trợ trẻ; tư vấn gia đình; trao đổi với giáo viên tại trường học. Sau thời gian hỗ trợ thân chủ đã có những bước thay đổi và cải thiện các vấn đề về hành vi cảm xúc, nhận thức vấn đề tích cực hơn giúp việc học tại lớp cũng như bầu không khí tại gia đình gần gũi và thân thiện hơn.

THÔNG TIN CHUNG:

TVA (tên trẻ được viết tắt) là trẻ nam 10 tuổi sinh năm 2007, hiện là học sinh lớp 3, cháu học lớp 3 (năm thứ hai) do lưu ban lại một năm. Hiện cháu đang học tại trường tiểu học ở ngoại thành Hà Nội. Cháu được bố và bà nội đưa đến khám tại bệnh viện với lý do cháu hay cáu gắt, thường từ chối các yêu cầu từ phía giáo viên mặc dù có thể cháu biết câu trả lời. Không chơi, tránh tiếp xúc với các bạn, tự hành động theo ý thích của mình. Quy trình thiếp nhận tại khoa tâm lý lâm sàng, cháu được sắp xếp tới gặp bác sĩ chuyên khoa sau đó có những chỉ định từ bác sĩ tới phòng chức năng tâm lý để thực hiện các trắc nghiệm, các thang đo bảng hỏi nhằm hỗ trợ cho việc xác định vấn đề.

Theo thông tin từ bà và bố của cháu bé:

Bố: THH, 1984, thợ hàn. Trình độ văn hóa 9/12 tính cách hiền lành nhưng đôi khi cục tính. Mẹ: NTH, 1983, học 5/12, công việc đi chợ bán hàng. Tính cách của mẹ cục tính, ương bướng. Bố mẹ đã ly hôn cách đây hơn 1 năm trước đó sống ly thân 8 năm, mẹ sống ngoài Miền Bắc và hiện đã tái hôn, cách nhà cháu hiện tại mấy cây số. Mẹ thỉnh thoảng có lên nhà bà nội thăm con, hiện tại mẹ chưa có em bé. Bố sau khi mâu thuẫn với mẹ làm việc tại nhà cho tới khi cháu 3 tuổi thì vào làm việc trong Miền Nam chỉ thỉnh thoảng mới về ngoài Miền Bắc thăm gia đình và gặp con. Bố chưa tái hôn, cách đây hơn 1 năm đón con về và hiện làm công việc cơ khí (thợ hàn) tại xưởng cách nhà khoảng 7km, thời gian rảnh bố thường đi gặp bạn bè uống rượu hoặc đi bắn chim, câu cá. Cháu hiện đang ở cùng với bố; ông bà nội, cô em bố cùng con của cô (4 tuổi) ở tại nhà của ông bà nội. Ông nội năm nay 70 tuổi là người hay mắng, cằn nhằn và có khi đánh cháu. Bà nội 67 tuổi cũng thường hay nói, chê trách mẹ, và nhắc nhở cháu trách mắng cháu.

Các vấn đề hiện tại:
      - Hiện nay cháu hay cáu gắt, dễ mất kiểm soát về hành vi và cảm xúc diễn ra cả ở lớp và ở nhà.
      - Giáo viên chủ nhiệm và các giáo viên bộ môn khác phản ánh cháu học kém, không tuân thủ các yêu cầu, quy tắc trên lớp. Giáo viên chủ nhiệm yêu cầu gia đình đưa cháu đi kiểm tra, khám tại bệnh viện.
      - VA ở nhà chơi game trên điện thoại và xem các chương trình tivi nhiều, cháu hạn chế ra ngoài chơi cùng bạn bè trong xóm.
      - VA thường từ chối các hoạt động khi người khác yêu cầu bằng cách nói " cháu không biết/cháu chịu" hoặc quay đi chỗ khác, né trách nhiệm vụ.

Các vấn đề của cháu bắt đầu xuất hiện từ năm cháu học lớp 2 (tức cách đây 2 năm), khi đó cháu bỏ bê bài vở và lực học kém, tiếp thu kém, không hòa đồng cùng các bạn, chơi môt mình, dù trước đó cháu học bình thường, có chơi cùng với bạn bè, và được đánh giá là ngoan, lễ phép.

Khi cháu bắt đầu học lớp 3 thì học kém hẳn và không chịu tuân theo các yêu cầu từ cô giáo nên phải nghỉ học và học lại một năm lớp 3. Khi cho cháu đi học lại lực học vẫn kém (nhất là toán và văn điểm làm bài chỉ 2-3 điểm); cháu thích học tin học môn đó được 8-9 điểm.

Lịch sử phát triển:

Giai đoạn sơ sinh tới mầm non (đến 3 tuổi)

Bố mẹ mang thai theo cách tự nhiên, khi mang thai sức khỏe và tâm lý bình thường tuy nhiên khi tháng thứ 6-7 mẹ cháu bị ngứa và dùng lá xông là khỏi không phải sử dụng thuốc tây. Cháu sinh thường, không ngạt, đủ tháng, cân nặng lúc sinh khoảng 3kg, cháu khóc ngay và không có biến chứng bất thường sau sinh. Những tháng đầu ăn ngủ tốt, có khoảng thời gian khi cháu được khoảng 8-10 tuần, cháu hay khóc đêm (khoảng 1- 2 giờ đêm) khóc khoảng 15 phút không dỗ được, không có can thiệp gì sau một thời gian thì bình thường.

Theo ông nội khi cháu được 7 tháng cháu bị sốt nằm viện, bố mẹ cháu có mâu thuẫn cãi nhau tại bệnh viện vì lý do kinh tế rồi dẫn đến ly thân (mẹ bỏ về nhà đẻ rồi ông ngoại cháu yêu cầu nhà nội phải sang xin lỗi). Cháu bú sữa mẹ tới tháng thứ 7 thì cai sữa, cháu ăn sữa ngoài do mẹ bỏ về bên ngoại. Các mốc phát triển gần như là bình thường, không có vấn đề gì đặc biệt (bố không rõ cụ thể các mốc về bò, lẫy, đi…).

Từ nhỏ cho tới 3 tuổi cháu sống cùng ông bà nội, chỗ ở xung quanh không được hòa đồng như các làng khác, cháu hay chơi một mình. Từ nhỏ cháu được nhận xét ngoan, nghe lời người lớn, bảo gì làm đấy. Thời gian đó cháu ở nhà với bà nội, bố đi làm sáng đến tối. Thỉnh thoảng, mẹ tới thăm con hoặc cho về nhà chơi một vài hôm vào cuối tuần (hai gia đình thông gia không đi lại với nhau). Từ sau 3 tuổi mẹ tới đón con về nuôi bên ngoại và chỉ thi thoảng cháu mới về bên nhà ông bà nội chơi.

Giai đoạn từ 3 tuổi tới tiểu học:

Sau khi mẹ đón con về bên nội bố cháu vào Sài Gòn làm việc thi thoảng có nói chuyện với mẹ qua điện thoại, có động viên nhau là quay trở lại nhưng ông ngoại không đồng ý, theo lời kể của bố. Theo bố VA, bố vợ và con rể hay mâu thuẫn, không muốn cho con gái ở cùng với anh nên luôn mắng chửi và không cho phép bố mẹ cháu quay lại với nhau. Bố cháu thấy ông ngoại có sổ khám về tâm thần nhưng không biết là bị bệnh gì chỉ thấy rất khó tính và gia trưởng. Cách đây hơn một năm thì bố mẹ cháu ly hôn để mẹ đi lấy chồng khác.

Khi đến tuổi đi học cháu chuyển trường 3 đợt. VA học lớp 1 tại trường tiểu học gần nhà. Năm học lớp 1 cháu lực học khá, các bạn thích chơi cùng, cô giáo không có nhận xét gì tiêu cực về cháu. Tuy nhiên, khi đó cháu hay bị các anh lớn tuổi hơn bắt nạt, có vài lần tự đi xe từ trên ngoại về nhà nội cháu kể do xung đột chị em họ.

          Sau khi cháu học xong 1, mẹ đưa cháu lên ở cùng nhà Chùa rồi cho cháu học lớp 2, lớp 3 trường tiểu học ở khác huyện, cách nhà khoảng 40km. Việc mẹ chuyển trường cho cháu và cho cháu lên đó ở cùng với nhà Chùa hoàn toàn giấu gia đình bên nội. Theo bà nội giai đoạn này gia đình có sang hỏi tin về cháu, để xin cho cháu về nhà thì ông ngoại và mẹ cháu và ông ngoại đều trả lời cho qua và không cho biết cháu đang ở đâu mà chỉ nói là cháu đang ổn, gia đình không cần lo lắng. Trong khoảng thời gian đó gia đình bên nội gần như không biết về tin tức cháu thế nào.

Theo bố sau khoảng 2 năm thì mẹ gọi cho bố lên nhà Chùa đón con về nuôi và ly hôn để mẹ tái hôn. Sau khi cháu về nhà cháu ở cùng ông bà, bố, cô và con của cô. Lúc này hỏi cháu thời gian ở Chùa thì cháu ít nói về các chuyện ở đó, cháu chỉ chia sẻ sáng đi học chiều về ở Chùa, ở đó cháu ít có bạn chơi cùng và hay bị các bạn học ở trường đó bắt nạt. Bố kể cháu ở đó cả ngày đêm, ban ngày đi học ở trường ngoài Chùa cùng bạn, tối ở lại với các sư (cháu than với bố: bố tưởng con sướng lắm vì ban ngày phải đi học văn hóa, tối về sư bắt con tụng kinh).

Từ khi cháu về nhà cháu hay cáu gắt, đòi hỏi không được thì đá đồ, hét lên. Gia đình thương cháu vì thiệt thòi nên thường nhịn và đáp ứng cho cháu. Theo bố và bà khi cháu nhịn thì rất nhịn nhưng khi không nhịn được thì nóng tính (theo bà tính này giống với mẹ của cháu). Cháu ít khi đi chơi cùng các bạn chỉ đạp xe đi lòng vòng quanh làng hoặc chạy hùa cùng các bạn, chủ yếu ở nhà xem tivi và chơi điện thoại.

Kết quả các thang đánh giá tâm lý:

Ngoài việc hỏi chuyện, phỏng vấn tiểu sử quá trình phát triển của cháu thông qua ông bà/ bố của cháu, chúng tôi có thực hiện các thang đo, bảng hỏi về trí tuệ cũng như về hành vi; cảm xúc.

Kết quả cho thấy IQ ~ 95 ở mức trung bình (theo Raven màu và WISC IV).

Thang đánh giá các vấn đề hành vi cảm xúc ở trẻ SDQ-25 do bố thực hiện – cháu có Vấn đề về cảm xúc (bao gồm thường tỏ ra lo lắng/ hồi hộp sợ sệt trong các tình huống mới, dễ mất tự tin/ hay sợ hãi, dễ hoảng sợ); vấn đề về mối quan hệ bạn bè (hay lủi thủi một mình hoặc có xu hướng chơi một mình; hay bị những trẻ khác bắt nạt hoặc trêu chọc; có it bạn bè thân);

Thang Vanderbilt (thang đo về tăng động giảm chú ý) do bố thực hiện.

VA không có đủ tiêu chí về tăng động giảm chú ý tuy nhiên qua thang đo cháu có một số dấu hiệu hành vi xâm kích; lo âu, thiếu tự tin, đánh giá bản thân thấp (hằn học, trả thù người khác; lo hãi, lo lắng; dễ bối rối kém tự tin; sợ thử những điều mới hoặc lo sợ bị mắc lỗi; cảm thấy vô vọng hoặc thấp kém; cảm giác vô đơn vô tích sự, không được yêu quý, phàn nàn về việc không có ai yêu mình).

DBC-P – Bảng kiểm hành vi phát triển do bà nội thực hiện: cháu có biểu hiện lo âu, căng thẳng (sợ một số tình huống; bực bội khi có những thay đổi trong thói quen hoặc môi trường sống)

Khi được yêu cầu cháu vẽ tranh miêu tả về gia đình ở lần thăm khám đầu  cháu từ chối vẽ và nói “cháu không biết”.

Tuy nhiên sau đó 2 tuần khi tham gia trị liệu cùng nhà trị liệu cháu chấp nhận vẽ. Trong bức vẽ cháu vẽ 3 thành viên là ông nội, bà nội và bản thân mình, các hình cách rời nhau, phản ánh thiếu sự tương tác, gần gũi, gắn kết. Trong bức vẽ cháu vẽ mình ở vị trí thấp nhất, cháu phản ánh trong nhà người cao nhất là ông nội của cháu, rồi đến bà nội. Hình vẽ vắng hình ảnh bố và mẹ trong bức tranh, khi được hỏi về bức vẽ cháu từ chối bình luận và miêu tả bức vẽ (tìm cách hướng cuộc nói chuyện sang chủ đề khác).



I. CÁC VẤN ĐỀ TÂM LÝ CỦA THÂN CHỦ

A. Mối quan hệ xã hội
1. Hiện tại ở lớp cô giáo thường xuyên nhắc nhở bởi cháu không thực hiện các yêu cầu từ phía cô giáo.
2. VA hiện đang bị các bạn cô lập và thường trêu chọc ở lớp và ít được các bạn cho tham gia vào các hoạt động tại lớp như chơi trò chơi hay tham gia vào các hoạt động nhóm.
3. Ở nhà cháu không có mối quan hệ tốt với ông bà và cô, thường bị người lớn trong nhà nhắc nhở, và quát mắng, đôi khi là bị trách phạt bằng đòn roi.
 4. VA và bố ít có sự thể hiện tình cảm, cháu thường chỉ muốn tới với bố khi muốn chơi điện tử trên điện thoại hoặc muốn mua cái gì cho mình.
5. Cháu thường xuyên từ chối thực hiện các nhiệm vụ hay những yêu cầu tham gia nhóm trong lớp.

B. Học tập
6. Hiện tại cháu đang đi học tiểu học năm thứ hai của lớp 3 trên lớp cháu không chép bài, không làm bài và không nghe theo cô nên các môn học kết quả rất kém (ngoài môn tin và môn thể dục là cháu thích).
7.Về nhà cháu không làm bài tập về nhà dù bố mẹ hay ông bà có yêu cầu cháu làm cháu cũng như không thực hiện.

C. Các vấn đề về hành vi/cảm xúc
8. VA có hành vi thu mình như tại gia đình cháu ít khi chơi cùng các bạn trong xóm, hay anh em trong họ hàng gia đình, cháu không có bạn thân hay có bạn để chia sẻ nói chuyện mà chỉ thỉnh thoảng đạp xe loang quanh ở xóm và đứng nhìn các bạn từ xa.
9. Cháu đánh giá bản thân thấp luôn có suy nghĩ mình là đồ bỏ đi, mọi người không yêu thương mình, mình là kém cỏi và thấp kém.
10. VA có suy nghĩ ghen tỵ với các bạn về việc mình không được người khác yêu thương, không nhận được những mối quan hệ hay những phần thưởng về vật chất và những quan tâm về tinh thần như các bạn.
11. VA khi căng thẳng cháu không kiểm soát được và có những hành vi như la hét, đập phá, gào khóc.

 II. CHẨN ĐOÁN

Những sự kiện về chia ly, xa cách bố mẹ từ sớm, việc phải thay đổi nơi ở thường xuyên cùng hoàn cảnh gia đình, môi trường sống không thuận lợi làm ảnh hướng đến sự phát triển, cảm xúc hành vi và nhận thức của VA.

III. ĐỊNH HÌNH TRƯỜNG HỢP

Những khó khăn trong quá trình phát triển, về cảm xúc, hành vi và nhận thức của VA ở thời điểm hiện tại có thể do những sự kiện trong cuộc sống mà cháu gặp phải, cũng là những nguyên nhân làm xuất hiện vấn đề và duy trì khó khăn của cháu. 
Một số giả thuyết cho vấn đề của VA như: 
Thứ nhất trong quá trình phát triển trẻ thiếu sự quan tâm thường xuyên của bố mẹ 7 tháng tuổi đã có sự chia cách mẹ, phải cai sữa sớm, cháu ở cùng bố và ông bà nội, bà nội là người chăm sóc chính, nên việc phát triển về tâm lý không hoàn thiện. 
Thứ hai cháu đã trải qua những sự kiện tâm lý có thể gây stress, căng thẳng trong cuộc sống như việc bố mẹ chia cách, rồi bố mẹ ly hôn; sự kiện mẹ gọi bố lên Chùa đón cháu về nhà ở với bố để mẹ tái hôn. Tiếp đến, cháu phải rời xa môi trường an toàn bên cạnh người thân để chuyển đến nơi ở mới để sinh sống và học tập (nhà Chùa), các sự kiện này cháu đều không thể chuẩn bị hay được biết trước mà đều đến bất ngờ. 
Thứ ba, cháu thường xuyên bị bạn bè trêu chọc, bắt nạt, chê trách, tẩy chay không cho tham gia các hoạt động từ khi ở trường học gần Chùa, cho tới về trường học hiện tại. 
Thứ tư, những ép buộc trong việc phải thực hiện những nhiệm vụ, hoạt động không yêu thích như thực hiện những nhiệm vụ ở Chùa của sư thầy (đọc kinh, thức dậy sớm quét dọn); nhiệm vụ học tập trên lớp; ở nhà ông bà yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ. 
Thứ năm, cháu thường bị người khác đánh giá bởi những nhiệm vụ tiêu cực mà hiếm khi được củng cố hay khích lệ tinh thần trong các trường hợp cháu làm đúng hay thực hiện tốt.

Những giả thuyết liên quan tới rối loạn sự thích ứng của cháu. VA liên tục phải thay đổi địa điểm sống (nhà nội (từ sơ sinh tới 3 tuổi) – nhà ngoại (từ sau 3 tuổi đến 7 gần 7 tuổi) – nhà Chùa (từ 7 tuổi tới gần 9 tuổi) – Trường tiểu học hiện tại – trường học gần nhà Chùa – Trường tiểu học hiện tại - học cùng bạn học nơi mới – nơi cũ – lớp học lại), việc thay đổi quá nhiều và liên tục khiến khả năng thích nghi với môi trường mới, cảm giác được an toàn thấp có thể khiến trẻ luôn trong trạng thái lo lắng, sợ hãi phải thích nghi với những môi trường mới khó dự đoán. Cùng với đó VA thiếu hình mẫu tích cực và niềm tin vào cuộc sống từ những người xung quanh, những suy nghĩ về cuộc sống thất bại tiêu cực, bố mẹ ly hôn, mẹ tái hôn, bố thì bất ổn và không có tiếng nói trong gia đình. Ngoài ra, cháu rất ít khi được thực trải trải nghiệm những hoạt động bởi những lựa chọn tự phía mình, có chính kiến, quan điểm riêng trong cuộc sống mà đa số làm theo những chỉ dẫn, chỉ định từ người lớn. Trong quá trình phát triển VA ít nhận được những khuyến khích, động viên tích cực.

Những hành vi cảm xúc của VA còn có thể do thiếu những kỹ năng nhận diện, hiểu và kiểm soát cảm xúc của bản thân mình; những kỹ năng ứng xử với bản thân trong các tình huống tiêu cực; những kỹ năng kết bạn và duy trì tình bạn thấp và non nớt. Ngoài ra, có thể là những đặc điểm tính cách có xu hướng gây hấn, khó kiểm soát bởi đặc điểm tính cách của bố và mẹ đều có xu hướng dễ bùng nổ, khó kiểm soát cảm xúc bản thân.

IV. MỤC TIÊU ĐẦU RA

Những vấn đề về tâm lý của VA có thể được cải thiện nếu chúng ta có sự trợ giúp về tâm lý – giáo dục phù hợp trong những môi trường, những bối cảnh mà cháu đang gặp phải những khó khăn đó.

1. Nâng đỡ, chấp nhận những cảm xúc của VA
2. Chấp nhận những đề xuất và yêu cầu từ phía trẻ nhằm tăng niềm tin của bản thân vào người khác
3. Tư vấn gia đình.
4.Giảm áp lực từ phía giáo viên tới VA.
5. Củng cố kiến thức phù hợp với kiến thức hổng của VA tại trường.
6. Huấn luyện một số kỹ năng xã hội, kỹ năng giao tiếp.
7. Nhận thức hành vi. 

V. MỤC TIÊU QUÁ TRÌNH
1. Nâng đỡ, chấp nhận cảm xúc của VA.
Hỗ trợ trị liệu tâm lý cho cháu với tần suất 3 buổi/tuần và mỗi buổi 60 phút trong đó bao gồm các hoạt động chơi/hoạt động hoạt động về nhận thức vấn đề/xây dựng mối quan hệ hai chiều với cháu. Trong quá trình chơi chấp nhận những cảm xúc của VA kể cả những cảm xúc khó chịu của trẻ, đôi khi là cả sự từ chối tham gia hoạt động của trẻ nhằm tái cấu trúc lại hình ảnh bản thân mình được người khác tôn trọng và chấp nhận.

2. Chấp nhận những đề xuất và yêu cầu từ phía trẻ nhằm tăng niềm tin của bản thân vào người khác.
Trong mỗi buổi trị liệu, ngay từ đầu nhà trị liệu cùng VA xây dựng lịch trình của buổi trị liệu và cho trẻ được đề xuất hoạt động nào được thực hiện trước, hoạt động nào được thực hiện sau (trong đó các hoạt động trẻ có thể xây dựng cùng nhà tâm lý). Trong mỗi buổi trị liệu có khoảng 4-5 hoạt động được triển khai bao gồm (chơi tự do trong đó trẻ được lựa chọn đồ chơi mà trẻ muốn; hoạt động chơi trò chơi theo luật trong trò chơi này trẻ được đề xuất luật chơi; hoạt động kỹ năng xã hội trong hoạt động này nhà trị liệu đưa ra kỹ năng còn trẻ có được đề xuất hình thức học có thể bằng giấy hoặc học cùng laptop; hoạt động ứng dụng kỹ năng trong các tình huống ở đây nhà trị liệu sẽ đưa ra các tình huống có thể áp dụng kỹ năng này, VA đưa ra các câu trả lời của bản thân áp dụng; trong các hoạt động trẻ được tích điểm bằng ngôi sao khi có đáp án hoặc trả lời đúng; phần cuối là nhận phần thưởng, được xây dựng dựa trên những thứ mà trẻ muốn có thể bằng laptop hoặc bằng điện thoại…)

3. Tư vấn gia đình
Trao đổi cùng ông bà và bố của cháu về tình trạng vấn đề của VA, những khó khăn hiện tại cháu đang gặp phải, hướng dẫn phụ huynh cách ứng xử phù hợp khi ở nhà trong các tình huống với con phù hợp. Trao đổi với phụ huynh những điều tích cực cháu có thể nhận được nếu ta có những hỗ trợ phù hợp cho cháu. Mỗi buổi sẽ gặp 15 phút vào cuối buổi trị liệu để trao đổi cùng phụ huynh về những vấn đề của cháu, những biến chuyển hiện tại của cháu, cùng với việc lắng nghe những trao đổi từ phía phụ huynh.

4. Giảm áp lực từ phía giáo viên tới VA
Gửi thư ngỏ tới giáo viên chủ nhiệm tại trường trong đó nói về tình trạng của VA, những khó khăn mà cháu đang có cũng như những phản ứng hiện tại cháu đang sử dụng trước những tình huống ở lớp và những hệ quả có thể cháu sẽ nhận được khi ở lớp. Đánh giá cao những nỗ lực và những hỗ trợ hiện tại cô đã và đang hỗ trợ trẻ tại lớp. Gợi ý một số hướng dẫn cho giáo viên có thể thực hiện trên lớp (cho trẻ tham gia một vài hoạt động trên lớp với khả năng của mình như xóa bảng; phát sách vở; hô hiệu lệnh ở lớp …) đồng thời khen ngợi trẻ trước lớp khi trẻ thực hiện được các nhiệm vụ. Bên cạnh đó những kì vọng phù hợp với khả năng hiện tại của cháu ở trên lớp sẽ giúp giáo viên giảm bớt áp lực cho VA cũng như cho bản thân mình. Gợi ý cô và trẻ cùng nhau xây dựng hệ thống phần thưởng quy đổi giữa hành vi cháu thực hiện và những điều cháu sẽ đạt được khi có những hành vi tích cực đó. Trong thư có nói tới những hỗ trợ mà gia đình đang theo để thay đổi tình trạng hiện tại của cháu để giáo viên có thể nhận thấy tính tích cực tham gia từ phía gia đình. Nhà trị liệu đề xuất giáo viên hình thức trao đồi bằng gặp mặt; email; điện thoại trong một số tình huống cần thiết.

5. Củng cố kiến thức phù hợp với kiến thức hổng của VA tại trường.
Trong thư ngỏ cũng như trong tư vấn cùng gia đình, gia đình và giáo viên chủ nhiệm thống nhất việc cháu có thêm sự hỗ trợ về kiến thức hiện tại cho cháu với việc tới nhà cô học thêm vào cuối tuần. Trong thời gian đó giáo viên cần đánh giá lại khả năng kiến thức hiện tại của VA và có những hỗ trợ, củng cố phù hơp để cháu có thể theo kịp các bạn trên lớp hiện tại.

6. Huấn luyện một số kỹ năng xã hội, kỹ năng giao tiếp
Trong thời gian hỗ trợ VA nhà trị liệu lồng ghép các nội dung về kỹ năng giao tiếp xã hội như các bước để làm quen với bạn, nhận biết cảm xúc; quản lý cảm xúc, kỹ thuật thư giãn, để trẻ có thêm những kỹ năng cho bản thân, những cách để mình có thể nhận biết được cảm xúc của bản thân mình, những hệ quả của bản thân với hành vi mình thể hiện ra. Khi những cảm xúc tiêu cực đến với mình mình cần có những cách ứng phó như thế nào cho phù hợp với tình huống đó, tránh vướng vào những rắc rối cho bản thân.

7. Nhận thức hành vi.
Đưa ra các hành vi và cùng diễn giải các hành vi theo hướng tích cực để trẻ đưa ra hiểu về hành vi đó. Cùng nhìn nhận hành vi dưới các góc độ khác nhau để bản thân VA có cái nhìn đa dạng về một hành vi, một sự kiện, đồng thời đưa ra các cách ứng xử phù hợp trong các tình huống đó, các hệ quả tích cực hay tiêu cực khi ta thực hiện các hành vi đó. Hướng tới việc xây dựng các góc nhìn của bản thân trẻ trước một tình huống thay vì ta chỉ có góc nhìn tiêu cực hướng tới những hành vi né tránh, từ chối chúng ta có thêm những lựa chọn khác mang lại những hệ quả tích cực hơn. Thông qua nhận thức hành vi giúp trẻ hiểu được ảnh hưởng của suy nghĩ, hành vi lên cảm xúc.

VI. Tiến trình trị liệu và kết quả bàn luận:

Giai đoạn đầu tham gia trị liệu về tâm lý trẻ thường né tránh trả lời các câu hỏi và có xu hướng cúi mặt xuống khi trả lời, cháu hạn chế nhìn vào mắt người đối diện. Khi trả lời câu hỏi cháu trả lời “cháu không biết” hoặc nói lảng tránh sang lĩnh vực khác chủ yếu về trò chơi điện tử mà cháu chơi trên điện thoại của bố, hay cháu đã xem phim gì. Cháu thường than phiền về những người xung quanh bởi những trách móc như ông bà, cô, bố.

VA đánh giá bản thân mình thấp, gia đình mình khổ không được giàu có như nhà các bạn. Không được nhận những phần thưởng vật chất hay đi chơi, thăm thú các nơi như các bạn.

VA có những điểm mạnh như khả năng diễn đạt, khả năng tư duy logic, vốn từ vựng tốt, bản thân có mong muốn sẽ tiến bộ hơn.

Sau thời gian tham gia trị liệu bản thân cháu nhận thức được cảm xúc và hành vi của mình tại thời điểm là không được người khác mong muốn, nó ảnh hưởng tới mối quan hệ với cô giáo, các bạn ở trường và người thân trong gia đình. Cháu mong muốn được học thêm các kỹ năng từ nhà tâm lý để giúp mình có thể cải thiện hơn trong mối quan hệ với bạn bè (cháu ước là cháu được các bạn chơi cùng, và cháu được làm lớp trưởng). Cháu mong ông bà bớt lo lắng về vấn đề của mình. Bản thân trẻ đã có những ước mơ, mong muốn và dự định về tương lai của mình như làm kỹ sư về điện thoại, lấy vợ trong tương lai.

Nhận thức được về vấn đề hoàn cảnh của gia đình cháu nói “mỗi nhà có mỗi hoàn cảnh riêng, và đôi khi cháu phải chấp nhận những điều đó thôi”. VA nhận thức được bố yêu thương cháu tuy nhiên bố không có tiếng nói trong nhà và thường phải nghe lời ông, cháu cũng có những mong muốn được nhận tình cảm từ bố “cháu mong cuối tuần bố cho cháu đi chơi, đi đến cả nhà bạn của bố nữa”.

Giáo viên hiện tại đã giảm bớt áp lực hơn cho cháu, cho cháu tham gia là lớp phó lao động và có thêm phần thưởng tích điểm khi cháu làm những việc ở trên lớp giúp cô như thì sẽ nhận được ngôi sao, sau đó sẽ được quy đổi từ các ngôi sao sang các phần thưởng cháu muốn (bút chì, tẩy, sticker, sử dụng điện thoại của cô vào buổi trưa cuối tuần; được hỗ trợ thầy dậy tin học; của thầy thể dục…)

Ông bà và bố tích cực đưa cháu đến tham gia trị liệu, sau mỗi buổi luôn dành thời gian để hỏi han tình hình của VA và lắng nghe những trao đổi từ phía nhà trị liệu. Ông nội của cháu trao đổi với nhà trị liệu “tôi thấy đỡ phải nóng giận hơn vì nó nghe lời hơn chú ạ”.

           Bố dành thời gian buổi tối hướng dẫn con học bài và có những phần thưởng quy đổi khi cháu thực hiện những hành vi tích cực tại nhà, bố nhận xét “trước đây em cứ nghĩ cháu thiệt thòi và cháu láo với ông bà nên càng làm cháu trầm trọng hơn – giờ cháu như thế này em mừng lắm”.

Kết luận:
Trên đây là mô tả trường hợp tiếp nhận, đánh giá tâm lý và xây dựng kế hoạch hỗ trợ toàn diện cho trẻ có phản ứng với stress trầm trọng và rối loạn sự thích ứng. Việc phát hiện và hỗ trợ kịp thời giúp trẻ giảm bớt những hành vi, cảm xúc chống đối, né tránh với môi trường xung quanh, giúp trẻ cải thiện chất lượng cuộc sống cũng như những những hoạt động chức năng của mình.

Tài liệu tham khảo
1. ICD 10 – Bảng phân loại quốc tế bệnh tật lần thứ 10, NXB Yhọc
2. Nguyễn Thị Biển, Luận văn thạc sĩ tâm lý “Phản ứng với stress của bệnh nhân ung thu máu”, đại học khoa học và xã hội nhân văn Hà Nội, năm 2012.
3.  Nguyễn Hữu Chiến, “bài giảng về Stress dành cho lớp định hướng tâm thần” năm2015.



Tác giả: TS.BS Nguyễn Hữu Chiến.
               Ths Vũ Văn Thuấn
Bệnh viện Tâm thần Trung ương 1
Đọc tiếp…

Chậm phát triển tâm thần

Chậm phát triển tâm thần không phải là một đơn thể bệnh mà là một nhóm trạng thái bệnh lí.

Chậm phát triển tâm thần (CPTTT) không phải là một đơn thể bệnh mà là một nhóm trạng thái bệnh lí, khác nhau về bệnh nguyên và bệnh sinh nhưng có chung một bệnh cảnh lâm sàng, đó là sự trì trệ về phát triển tâm thần có tính chất bẩm sinh hoặc mắc phải chủ yếu trong ba năm đầu khi hệ thần kinh chưa hoàn chỉnh về cấu trúc.

Chậm phát triển tâm thần là gì?


Đặc điểm chung của CPTTT là toàn bộ sự phát triển tâm thần nói chung (toàn bộ nhân cách) đều bị ảnh hưởng, nhưng nổi bật lên là hoạt động trí tuệ bị trì trệ, kém phát triển hoặc không phát triển được. Như vậy không phải riêng trí tuệ mà các hoạt động tâm thần khác đều bị ảnh hưởng. Tỷ lệ mắc CPTTT khoảng 1%, nam nhiều hơn nữ.

Phân loại chậm phát triển tâm thần

Căn cứ vào đánh giá lâm sàng và chỉ số IQ, các tác giả Hoa Kì cũng như của Tổ chức Y tế Thế giới thống nhất chia CPTTT ra làm 4 mức độ, theo bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) chia như sau:
  • Chậm phát triển tâm thần trầm trọng: IQ <20.
  • Chậm phát triển tâm thần nặng: IQ từ 20 - 34.
  • Chậm phát triển tâm thần vừa: IQ từ 35 - 49.
  • Chậm phát triển tâm thần  nhẹ: IQ từ  50 - 69.

Chỉ số IQ từ 70 - 85 được coi là mức độ ranh giới giữa trí tuệ bình thường và CPTTT nhẹ. Về mặt lâm sàng có thể tóm tắt các mức độ như sau:

1. Chậm phát triển tâm thần trầm trọng và nặng:

- Tư duy: Hầu như không có ngôn ngữ hay chỉ phát ra những âm, từ mà bản thân bệnh nhân  không hiểu. Tư duy hầu như chưa có hoặc chỉ là tư duy cụ thể thô sơ. Phản ứng không thích hợp với xung quanh, thường phủ định , chống đối. Bệnh nhân chưa có ý thức về bản thân  hoặc chỉ có một cách lờ mờ.
- Cảm xúc: chỉ có cảm xúc cấp thấp, liên quan đến thoả mãn nhu cầu cơ thể, khi no ấm có khí sắc dễ chịu  bình tĩnh, khi đói lạnh đau thì la hét. Nhiều bệnh nhân có những cơn giận dữ phá phách không duyên cớ. Không buồn, không lo, không có phản ứng cảm xúc thích hợp với hoàn cảnh, thiếu sự gắn bó với người thân, sợ hãi trước cái lạ, cái mới...
- Hành vi tác phong: không có hoạt động có ý chí, không quan tâm đến đồ chơi, thường là những hành vi tự động theo bản năng hay những phản ứng thô sơ với kích thích bên ngoài. Có trẻ thường nằm im, có trẻ luôn có những động tác định hình, đơn điệu như lắc vặn thân mình, đong đưa cơ thể...Đôi khi có những cơn la hét, kích động vô cớ xuất hiện từng chu kì.
- Bản năng: Rối loạn bản năng ăn uống như không ăn,thèm ăn và ăn nhiều dẫn đến béo phì, không biết các mùi vị nên ăn cả các thứ bẩn, ôi thiu. Thủ dâm liên tục và công khai thường thấy ở bệnh nhân CPTTT.
- Các dị dạng cơ thể khá thường gặp ở nhiều cơ quan khác nhau của cơ thể như      thần kinh, da, giác quan, hệ thống xương (nhất là hộp sọ và cột sống), mắt tai răng, ngón tay chân....

 2. Chậm phát triển tâm thần mức độ vừa:

- Tư duy: có ngôn ngữ nói nhưng vốn từ không lớn, ngữ pháp giản đơn, phát âm sai. Rất khó hình thành ngôn ngữ viết. Có thể tư duy khái quát thô sơ nhưng không thể có tư duy trừu tượng. Không thể nhận thức được toàn thể, được ý chính của vấn đề. Có thể tính toán giản đơn cụ thể nhưng không thể tính toán trừu tượng. Trí phán đoán nghèo nàn. Không có tính độc lập suy nghĩ. Bệnh nhân tự tránh được các nguy hiểm thông thường như lửa, nước, điện, xe cộ trên đường. Bệnh nhân khó có thể tự lập làm ăn sinh sống, thường luôn cần người giám sát, theo dõi.
- Cảm xúc: Không ổn định, khi thì bàng quan vô cảm, khi thì ngoan ngoãn hiền lành, khi thì vui vẻ dễ bị kích thích
- Hành vi tác phong: Rất đa dạng, có trẻ hung dữ, đánh bắt nạt các trẻ khác, có trẻ hiền lành đễ bảo. Một số người có thể lao động giản đơn, thường lao động có tính máy móc định hình, không thể thay đổi theo hoàn cảnh mới. Đôi khi có hoạt động theo bản năng hoặc các cảm xúc mạnh, vì vậy dễ có những hành vi phạm pháp. Một số trường hợp có thể có triệu chứng loạn thần như kích động ,trầm cảm....
-Trí nhớ máy móc bề ngoài có thể khá phát triển, nhưng trí nhớ thông hiểu thường kém, do vậy trẻ khó học, khó tiếp thu cái mới.

3. Chậm phát triển tâm thần mức độ nhẹ

- Tư duy: Nhiều trường hợp khó phân biệt với mức bình thường. Ngôn ngữ khá phát triển, hiểu người khác nói và tự diễn đạt các suy nghĩ của mình. Có thể hình thành ngôn ngữ viết. Có khả năng tính toán học tập nhưng kém hơn so với bạn cùng tuổi. Có thể học hết cấp tiểu học tuy với kết quả học tập thường là kém hoặc rất kém, tư duy theo nếp cũ, thiếu sáng kiến, khả năng phân tích tổng hợp kém.
- Cảm xúc: Cảm xúc cấp cao có phát triển, thiếu tự lập, bám vào bố mẹ dù đã lớn, không đủ năng lực để giải quyết những mối xung đột tình cảm trong nội tâm, đôi khi có những cơn bùng nổ về cảm xúc
- Hành vi tác phong: có thể làm tốt những nghề không phức tạp và thích nghi được với môi trường xã hội song kém hiệu quả so với người khác.Nếu giáo dục và huấn luyện tốt, bệnh nhân có thể làm được những nghề không phức tạp và thích nghi được với môi trường xã hội. Một số trường hợp trẻ dễ có những hành vi mang tính thiếu suy nghĩ, dễ bị ám thị dẫn đến các hành vi phạm pháp.
Tóm lại, dựa vào đặc điểm lâm sàng và chỉ số IQ, CPTTT mức độ trầm trọng, nặng và vừa thường dễ chẩn đoán vì bệnh cảnh khá rõ ràng. Chẩn đoán CPTTT mức độ nhẹ nhiều khi rất khó vì bệnh cảnh lâm sàng không rõ ràng, thiếu sót tâm thần nhẹ ở sát với ranh giới mức bình thường.

Đọc tiếp…

Chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt tại nhà

Bệnh nhân tâm thần phân liệt có thể về nhà sau khi đã điều trị ổn định tại bệnh viện, phần nào đã thích ứng được với đời sống tại gia đình, xã hội. 

Những người này có thể tự chăm sóc, vệ sinh cá nhân, làm được một số công việc hằng ngày, chịu uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ.   

 Tâm thần phân liệt là một bệnh mãn tính, tiến triển từ từ theo từng giai đoạn nên phải điều trị và theo dõi lâu dài, có thể vài năm, thậm chí cả cuộc đời. Sau một thời gian điều trị giai đoạn cấp tại bệnh viện, bệnh cần được điều trị tốt tại nhà. 

Chăm sóc bệnh nhân tâm thần


Điều kiện để bệnh nhân được về nhà là không có các biểu hiện cần chỉ định vào viện như: kích động, tự sát, không chịu ăn, hoang tưởng, ảo giác nặng, hoặc có các hành vi nguy hiểm đến tính mạng của chính bản thân hoặc những người xung quanh.

 Người nhà bệnh nhân có vai trò rất quan trọng, là người sống cùng bệnh nhân, theo dõi sát và hiểu rõ về tính cách, diễn biến bệnh. Để việc điều trị tại nhà có hiệu quả, cần có sự phối hợp giữa người thân và bác sĩ. Do vậy, gia đình bệnh nhân cần nâng cao kiến thức, hiểu biết về bệnh tâm thần phân liệt và cách chăm sóc bệnh nhân tâm thần phân liệt

 Người nhà phải biết cách theo dõi bệnh nhân về diễn biến bệnh, như sự thuyên giảm của các triệu chứng (như hoang tưởng, ảo giác, kích động, hành vi tự sát, không chịu ăn...), ăn, ngủ như thế nào; có xuất hiện thêm các triệu chứng bất thường khác không. Cần theo dõi về khả năng tự chăm sóc bản thân, thực hiện các công việc đơn giản hàng ngày như nấu cơm, quét nhà, khả năng giao tiếp với người thân, tham gia các hoạt động nghề nghiệp, học tập, quan hệ xã hội... Kịp thời phát hiện các triệu chứng nặng như: kích động, tự sát, không chịu ăn... để có thể đưa bệnh nhân vào viện.

Gia đình bệnh nhân nên có một cuốn sổ để ghi lại các diễn biến của bệnh, phát hiện sớm các dấu hiệu tái phát như: thay đổi tính cách (dễ cáu giận, bực bội...); thay đổi trong nền nếp sinh hoạt; ngủ kém hoặc mất ngủ; cảm giác xung quanh thay đổi... Nếu có các triệu chứng trên, cần liên hệ ngay với bác sĩ điều trị hoặc đưa người bệnh đến cơ sở chuyên khoa tâm thần khám và điều chỉnh liều thuốc.

 Người nhà cũng nên có cuốn sổ theo dõi về tên, liều lượng thuốc bệnh nhân đang sử dụng, các tác dụng chính (chống hoang tưởng, ảo giác, kích động...) và phụ (cứng hàm, khó nuốt, ngủ nhiều, bồn chồn, bất an....). Cho bệnh nhân uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ, tuyệt đối không tự ý điều chỉnh thuốc và liều thuốc. Yêu cầu bệnh nhân uống thuốc khi có mặt của người thân vì người bị tâm thần phân liệt hay từ chối điều trị. Có bệnh nhân cho là đã khỏi bệnh hoặc sợ thuốc độc nên giấu thuốc, không chịu uống. Người nhà không nên cho bệnh nhân giữ hoặc biết nơi để thuốc vì họ có thể uống quá liều, gây ngộ độc.

 Thường xuyên cho bệnh nhân khám định kỳ, thông thường có thể 2-3 tuần hoặc 1 tháng một lần tùy theo thể bệnh (khi đến khám cần mang tất cả các tài liệu liên quan đến quá trình bệnh).

Người nhà cần động viên, giúp đỡ và có thái độ cư xử tôn trọng người bệnh; giúp đỡ, huấn luyện họ làm các công việc hàng ngày, tạo điều kiện cho họ được giao tiếp xã hội, được làm việc. Nên tôn trọng các quyền của bệnh nhân, thảo luận về các quyết định liên quan đến họ như: uống thuốc, khám bệnh định kỳ, nhập viện điều trị, tiếp tục làm việc, tham gia các hoạt động xã hội nghề nghiệp. Tránh thái độ xa lánh, coi thường.
Đọc tiếp…

Một số rối loạn tâm thần phổ biến ở người cao tuổi

Ở người cao tuổi, các rối loạn tâm thần thường gặp là: Sa sút trí tuệ, mê sảng, các rối loạn cảm xúc, tâm thần phân liệt và các rối loạn liên quan, rối loạn tâm căn và rối loạn nhân cách, lạm dụng chất và bệnh y sinh.

Người cao tuổi là người từ đủ 60 tuổi trở lên theo Luật người cao tuổi được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 23/11/2009. Ở một số nước phát triển (như Hoa Kỳ) người từ 65 tuổi trở lên được coi là người cao tuổi.

Trên thế giới, số lượng người cao tuổi ngày càng tăng, theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới từ năm 2015 đến 2030 số lượng người trên 60 tuổi sẽ tăng gần gấp đôi từ 12% - 22%. Trong đó, khoảng 15% người cao tuổi có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 2010, tỷ lệ người cao tuổi trong dân số là 9,3%, ước tính năm 2017 sẽ tăng lên 10%. Theo số liệu điều tra năm 2002 tại Việt Nam, tỷ lệ mất trí tuổi già là 0,9% dân số, năm 2012 tăng lên 1,52%.

Rối loạn tâm thần phổ biến ở người cao tuổi


Sau đây là một số rối loạn tâm thần thường gặp ở người cao tuổi:

1. Sa sút trí tuệ

Sa sút trí tuệ là tình trạng bệnh lý phổ biến với tỷ lệ khoảng 10% ở người trên 65 tuổi và có thể tới 50% ở người trên 85 tuổi. Sa sút trí tuệ do nhiều nguyên nhân khác nhau như: bệnh Alzheimer, các bệnh lý mạch máu (như đột quỵ, xơ vữa mạch não…), bệnh parkinson…

Các dấu hiệu từ sớm của bệnh sa sút trí tuệ có thể rất khó thấy, mơ hồ và có thể không xuất hiện một cách rõ ràng ngay. Một  số triệu chứng thông thường có thể bao gồm: Mất trí nhớ thường xuyên và ngày càng tăng, lẫn lộn, thay đổi tính tình, hờ hững và thu mình, mất khả năng thực hiện những công việc hàng ngày. Giai đoạn nặng, người bệnh có thể kích động, hoang tưởng và bùng nổ cảm xúc, người bệnh mất dần ngôn ngữ (vong ngôn), không tự phục vụ, chăm sóc vệ sinh hàng ngày.

2. Trầm cảm

Triệu chứng trầm cảm gặp ở 15% người cao tuổi. Mất người thân và bệnh lý cơ thể có liên quan chặt chẽ với trầm cảm. Trầm cảm khởi phát muộn có tỷ lệ tái phát rất cao, do đó trầm cảm ở người cao tuổi phải điều trị kéo dài. Triệu chứng và dấu hiệu thường gặp của trầm cảm bao gồm giảm năng lượng và sự tập trung, vấn đề về giấc ngủ (đặc biệt là dậy sớm buổi sáng và thức giấc nhiều lần trong đêm), giảm ngon miệng, sụt cân và các than phiền về cơ thể. So với người trẻ, người cao tuổi trầm cảm thường chú ý đến các than phiền về cơ thể hơn. Họ đặc biệt có những biểu hiện: Sự nghi bệnh, giảm lòng tự tin, cảm giác vô giá trị và khuynh hướng tự buộc tội bản thân kèm theo hoang tưởng và ý tưởng tự sát

3. Rối loạn hoang tưởng

Tuổi khởi phát rối loạn hoang tưởng thường từ 40 - 55 tuổi nhưng có thể khởi phát bất cứ độ tuổi  nào ở người cao tuổi. Hoang tưởng có nhiều loại nhưng phổ biến nhất là hoang tưởng bị truy hại (người bệnh tin rằng mình bị theo dõi, đầu độc… bằng một cách nào đó). Người bệnh thường tấn công đối tượng mà người bệnh cho rằng làm hại mình hoặc trốn tránh. Một hoang tưởng khác hay gặp ở người cao tuổi là hoang tưởng nghi bệnh, người bệnh tin là mình mắc mắc bệnh trầm trọng. Rối loạn hoang tưởng thường không liên quan đến mất trí.

4. Tâm thần phân liệt

Tâm thần phân liệt thường khởi phát ở tuổi trẻ, ở nam giới từ 15 – 25 tuổi (trung bình 20 tuổi), ở nữ giới tuổi khởi từ 25 – 35 tuổi (trung bình 30 tuổi).

Tâm thần phân liệt khởi phát muộn (late-onset  schizophrenia) khởi phát sau 45 tuổi và tâm thần phân liệt khởi phát rất muộn (very late-onset schizophrenia) sau 65 tuổi rất hiếm. Nữ giới khởi phát muộn hơn nam giới. Tỷ lệ tâm thần phân liệt thể paranoid ở tâm thần phân liệt khởi phát muộn cao hơn khởi phát sớm.

5. Nghiện chất

Nghiện rượu ở người cao tuổi thường có tiền sử sử dụng rượu quá mức từ thời trẻ. Người cao tuổi nghiện rượu thường có bệnh gan, và thường ly dị, độc thân, không có nhà cửa, phần lớn họ bị mất trí như hội chứng Korsakoff. Ngoài nghiện rượu, người cao tuổi còn nghiện nhiều loại chất khác như thuốc ngủ, thuốc giải lo âu. Nghiện ma túy như thuốc phiện, cần sa, chất dạng amphetamine ở người cao tuổi rất hiếm.

Nhìn chung rối loạn tâm thần ở người cao tuổi đa dạng và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Việc phát hiện sớm các biểu hiện của bệnh và can thiệp kịp thời là cần thiết. Thông thường rất ít người bệnh nhận thức được bệnh, họ thường phủ định không nhận mình có bệnh, mặt khác gia đình người bệnh có thể cũng không biết hoặc muốn che dấu.

Vì sức khỏe của người cao tuổi, hãy đưa người bệnh đến các cơ sở chuyên khoa tâm thần khám và điều trị. Tùy tình trạng bệnh, bác sỹ sẽ khám, tư vấn và đưa ra phương án điều trị và chăm sóc tốt nhất.
Bệnh viện Tâm thần Hà Tĩnh, địa chỉ đường Đồng Môn, phường Thạch Quý, Tp. Hà Tĩnh, Hà Tĩnh.
Đọc tiếp…

Định kiến và ám ảnh

Định kiến, ám ảnh và hoang tưởng là những rối loạn thuộc phần nội dung của tư duy, là những biểu hiện bệnh lý trong suy nghĩ của một con người.

1. Định kiến

Định kiến là những ý tưởng quá mức, ý tưởng ưu thế (dominant idea), là nhận định phát sinh từ những hoàn cảnh thực tế, nhưng sau đó chiếm một vị trí ưu thế quá mức trong ý thức của bệnh nhân kèm theo tình trạng căng thẳng cảm xúc. Ví dụ: đánh giá quá mức về một hành động nào đó của người khác, người bệnh cho rằng đó là sự xúc phạm, chế giễu mình. Càng suy nghĩ, càng thấy nó trở nên nặng nề, khó chịu, chi phối toàn bộ tư tưởng, cảm xúc và hành động của người bệnh. Người bệnh bận rộn với những ý nghĩ đau khổ về sự bị xúc phạm này và tìm kế hoạch trả thù.



Định kiến có các đặc điểm chung là:

– Được phát sinh từ những hoàn cảnh thực tế như một phản ứng tự nhiên của một người trước các sự kiện thực tế đó. Tuy nhiên, phản ứng đó trở nên quá mức và chiếm ưu thế trong ý thức người bệnh.

– Người bệnh không thấy chỗ sai của định kiến nên không tự đấu tranh để xóa bỏ định kiến.

– Định kiến không trở thành quan điểm vững chắc của người bệnh, việc đả thông thuyết phục có thể làm suy yếu định kiến, có khi cùng với thời gian, định kiến tự nó mờ nhạt và mất dần đi.

2. Ám ảnh

Ám ảnh là những ý tưởng, những hồi ức, những cảm xúc, những hành vi không phù hợp với thực tế, luôn luôn xuất hiện ở người bệnh với tính chất cưỡng bức. Người bệnh còn biết phê phán hiện tượng đó là vô lí, không cần thiết, muốn tự  xua đuổi đi nhưng không thể được.

 Các ám ảnh có đặc điểm chung là:

– Những vấn đề thuộc về tư duy, cảm xúc (chủ yếu là lo sợ) và hành vi không phù hợp nhưng luôn xuất hiện với tính chất cưỡng bức.

– Người bệnh thấy chỗ vô lý, thấy chỗ sai của ám ảnh, muốn đấu tranh, xua đuổi đi nhưng không được.

– Người bệnh thường đau khổ, đấu tranh đầy căng thẳng và bất lực với ám ảnh. Ví dụ: đau khổ về những ý nghĩ cứ đến mà không phù hợp với ý nghĩ của mình; đấu tranh căng thẳng với những xu hướng hành vi không phù hợp với cảm xúc, tình cảm của mình và đôi khi bất lực, phải làm theo ám ảnh.

Người ta có thể phân chia ra các loại ám ảnh như sau:

– Lo sợ ám ảnh: nội dung lo sợ ám ảnh hết sức đa dạng: ám ảnh sợ khoảng trống, ám ảnh sợ xã hội và những ám ảnh sợ biệt định như: sợ ở trên cao, sợ vật sắc nhọn, sợ bẩn, sợ bệnh… Có một số lo sợ liên quan đến hành vi như:

. Lo sợ thực hiện: đó là trạng thái lo sợ không thực hiện được một số động tác, hoạt động nào đó, ví dụ: sợ sẽ quên mất nội dung khi phát biểu trước công chúng, sợ sẽ bị bối rối khi phải trả lời câu hỏi, sợ vấp váp khi phát âm một từ nào đó, sợ thực hiện vụng về một động tác nào đó trong hoàn cảnh nhất định. Lo sợ không ngủ được là triệu chứng rất hay gặp ở người rối loạn giấc ngủ.

.Lo sợ một thói quen nào đó như: sợ đỏ mặt trước đám đông.

– Ý tưởng ám ảnh:

. Suy luận ám ảnh: người bệnh luôn luôn phải suy nghĩ về những vấn đề không có ý nghĩa, không thể giải quyết được, ví dụ: tại sao trái đất lại hình cầu? nếu trái đất hình trụ thì sẽ ra sao? Tại sao cái ghế lại bốn chân?

. Tính toán ám ảnh: người bệnh luôn phải bận tâm với những tính toán vô ích, ví dụ: cứ phải đếm biển số nhà trên đường phố, đếm các cửa sổ… Có khi phải lẩm bẩm liên miên các bài toán trong đầu.

. Nhớ ám ảnh: người bệnh luôn phải nhớ tên ,tuổi của những người thân quen, nhớ những từ, những thuật ngữ khác nhau.

. Ý tưởng xúc phạm, ý tưởng bất hạnh: đó là những ý tưởng trái với tình cảm thực của bệnh nhân, cứ xuất hiện khiến bệnh nhân đau khổ, ví dụ: con chiên đến nhà thờ là xuất hiện ý tưởng xấu, xúc phạm đến Chúa hoặc bố mẹ xuất hiện ý nghĩ là con mình sẽ bị bệnh hoặc gặp tai nạn…

. Hoài nghi ám ảnh: người bệnh luôn hoài nghi, phân vân về một sự việc đã xảy ra, ví dụ: đi ra đường cứ phân vân vì chưa đóng cửa phòng mà thực tế đã đóng rồi hoặc có người khi con chết đã chôn rồi mà vẫn băn khoăn là con mình chưa chết thật,…trong những trường hợp này thường dẫn đến hành động kiểm tra như: quay về nhà xem đã khóa cửa chưa hoặc đòi đào mộ lên xem con đã chết thật chưa.

– Xu hướng, hành vi ám ảnh:

. Xu hướng ám ảnh: là những xu hướng muốn tiến hành những hành động vô nghĩa, thường là nguy hiểm mà bản thân người bệnh thực sự không muốn làm, ví dụ: có xu hướng chửi người đi đường, cầm dao đâm con hoặc ngược lại đã có những trường hợp đứa trẻ có xu hướng cầm dao đâm cha mẹ, anh chị, khiến nó rất sợ và rất đau khổ với ý nghĩ và xu hướng này.

. Nghi thức ám ảnh: là những hành vi ám ảnh xuất hiện cùng với lo sợ ám ảnh và hoài nghi ám ảnh, nhiều khi nó là phương thức đấu tranh chống lại lo sợ ám ảnh, trở thành một thói quen, một nghi thức, ví dụ: người có ám ảnh lo sợ người thân bị tai nạn hoặc chết, mỗi lần ra khỏi nhà phải nhìn lại cửa sổ nhà mình 3 lần mới yên tâm đi thẳng. Theo người bệnh, động tác này có thể làm những điều không may không xảy ra và như vậy người bệnh mới yên tâm. Có những hành vi nghi thức liên quan tới những điều mê tín, ví dụ: để mong gặp may mắn trong công việc, khi ra khỏi cửa nhà phải bước bằng chân phải hoặc cần người nam giới đón ngõ,…Điều này chưa phải là bệnh lý, nhưng nếu là bệnh lý có thể trở thành nội dung của nghi thức ám ảnh.

. Thói quen ám ảnh: là những động tác thực hiện trái với ý muốn, người bệnh cố gắng kìm lại nhưng không được. Đây không phải là những động tác tự động mà là những động tác chủ ý, đã trở thành thói quen, ví dụ: những động tác trễ môi, nhe răng, há miệng, nghiêng, ngoẹo, lắc cổ. gãi mặt, vuốt mũi, vuốt tóc hoặc thêm quá nhiều tiếng đệm khi nói như: “vấn đề là”, “nghĩa là”, “rằng thì là”. Hội chứng ám ảnh hay gặp trong  các rối loạn tâm căn và trong giai đoạn đầu của bệnh tâm thần phân liệt.
Đọc tiếp…

Hoang tưởng là gì?

Hoang tưởng là những ý tưởng, những phán đoán sai lầm không phù hợp với thực tế do bệnh tâm thần sinh ra, bệnh nhân tin là hoàn toàn chính xác, ta không thể nào giải thích, đả thông được. 

Hoang tưởng chỉ mất đi khi bệnh tâm thần thuyên giảm. Hoang tưởng là triệu chứng chủ yếu của trạng thái loạn thần . 

Hoang tưởng là gì?

Cơ chế hình thành hoang tưởng

Cũng như sự hình thành các niềm tin, tín ngưỡng hay sự hiểu biết bình thường của con người là đi từ các quá trình tâm lý như: tri giác, trực giác, suy diễn ... các tác giả cổ điển cho rằng nếu các quá trình tâm lý nầy bị rối loạn thì hoang tưởng sẽ hình thành, ngườì ta gọi đó là các “cơ chế” hình thành hoang tưởng, có 4 cơ chế chính 
- Do suy đoán: bệnh nhân gán cho sự việc khách quan một ý nghĩa nào đó, ý nghĩa nầy xuất phát từ sự suy đoán chủ quan và bệnh lý của bệnh nhân, khác với sự suy đoán bình thường là có hệ thống và có nhiều giả thiết gắn vào những tình huống nhất định, không cứng nhắc và có thể thay đổi để thích hợp với hoàn cảnh, trái lại suy đoán bệnh lý thì chỉ đóng khung vào một ý nghĩa duy nhất vì bệnh nhân không thể nào tiếp thu sự phê phán được .
- Do trực giác: hoang tưởng được hình thành lập tức, nó chiếm ngự ngay trong ý thức của bệnh nhân và không qua một quá trình suy diễn nào cả, không dựa trên một cơ sở khách quan nào cả mà bệnh nhân chỉ gán cho sự vật, hiện tượng chung quanh một ý nghĩa mới theo hoang tưởng .
- Do tưởng tượng: bệnh nhân tin vào những điều tưởng tượng của mình là có thực trong thực tế. Cơ chế nầy thường gặp trong các hoang tưởng kỳ quái, hoang tưởng bịa chuyện .
- Do ảo giác: hoang tưởng hình thành trên cơ sở của ảo giác như do ảo thính, ảo thị, ảo vị, ảo khứu, ảo giác xúc giác .

Các chủ đề hoang tưởng thường gặp

Hoang tưởng có rất nhiều chủ đề khác nhau, sau đây là một số chủ đề thường gặp:

Hoang tưởng bị hại: bệnh nhân tin tưởng rằng có người đang theo dõi, hại mình như bị đầu độc, bắt giết mình...

Hoang tưởng ghen tuông: bệnh nhân cho rằng vợ/chồng mình có quan hệ bất chính với người khác, bệnh nhân lấy những sự kiện bình thường trong sinh hoạt hằng ngày như là những bằng chứng hiển nhiên cho mối quan hệ bất chính này. Bệnh nhân duy trì hoang tưởng với một cảm xúc thù hằn, giận dữ theo dõi vợ/chồng mình một cách bí mật, có thể có những hành vi nguy hiểm cho người khác. Hoang tưởng này thường gặp trong rối loạn hoang tưởng dai dẳng.

Hoang tưởng kiện cáo: bệnh nhân suốt ngày làm đơn kiện cáo về những vụ việc không có thực trong thực tế hoặc được bệnh nhân gán cho một ý nghĩa quá mức. Bệnh nhân gửi đơn kiện của mình hết cơ quan này đến cơ quan khác trong nhiều tháng nhiều năm, gây ra nhiều rắc rối cho các cơ quan có thẩm quyền. Hoang tưởng này thường gặp trong rối loạn hoang tưởng dai dẳng.

Hoang tưởng nghi bệnh: không có cơ sở thực tế nhưng bệnh nhân luôn nghi ngờ mình bị bệnh nguy hiểm. Bệnh nhân đi khám hết phòng khám này sang phòng khám khác để yêu cầu tìm cho ra bệnh.

Hoang tưởng liên hệ: với những sự kiện sinh hoạt bình thường bệnh nhân đều cho rằng có mối liên quan đặc biệt đối với mình. Thấy bạn bè nói chuyện với nhau thì bệnh nhân cho là họ đang nói xấu mình, một người nhìn mình một cách vô tình thì cho là họ nhìn kinh bỉ mình...

Hoang tưởng tự cao: bệnh nhân cho rằng mình có nhiều tài năng, tài giỏi, lãnh đạo được mọi người, có chức vị cao, giàu có của cải nhiều vô kể...

Hoang tưởng tự ti: là ngược lại với hoang tưởng tự cao. Bệnh nhân luôn cho mình là hèn kém, không có khả năng, hèn kém, không xứng đáng được mọi người quan tâm chăm sóc...

Hoang tưởng yêu đương: bệnh nhân cho rằng có nhiều người yêu mình, thường là cấp trên hoặc những người nổi tiếng. Do không được đáp trả bệnh nhân trở nên thù hằn, giận dữ. 

Hoang tưởng bị tội: bệnh nhân tin rằng mình có nhiều tội lỗi không thể tha thứ được. Hoang tưởng này thường gặp trong hội chứng trầm cảm và làm cho bệnh nhân tự sát.

Hoang tưởng bị điều khiển, bị chi phối: bệnh nhân cho rằng mình bị một thế lực nào đó điều khiển, chi phối hành vi, cảm giác hoặc suy nghĩ của mình. Các phương tiện chi phối có thể là vật lý, như tia X, làn sóng điện, chip điện tử... hoặc các hình thức điều khiển mang tính chất thần bí như người linh hồn người đã chết nhập vào. Thường gặp trong tâm thần phân liệt.

Hoang tưởng kỳ quái: là loại hoang tưởng khi bệnh nhân tin vào những điều kỳ quái không phù hợp với bối cảnh văn hóa của bệnh nhân như cho mình là siêu tổng thống hoặc có tính chất siêu nhiên như điều khiển được thời tiết, nói chuyện với thú vật ... đây là hoang tưởng thường gặp trong tâm thần phân liệt.

Điều trị hoang tưởng ở đâu?

Để điều trị hoang tưởng, người nhà cần đưa bệnh nhân đến Bệnh viện Tâm thần Hà Tĩnh để được các bác sĩ điều trị kịp thời. Địa chỉ: đường Đồng Môn, phường Thạch Quý, thành phố Hà Tĩnh.
Đọc tiếp…